Dân tộc thiểu số – Doisongthethao.com https://doisongthethao.com Trang thông tin đời sống & thể thao Sun, 28 Sep 2025 23:02:55 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doisongthethao/2025/08/icon-doisongthethao.svg Dân tộc thiểu số – Doisongthethao.com https://doisongthethao.com 32 32 Thái Nguyên xây dựng hệ giá trị văn hóa gắn với bảo tồn bản địa https://doisongthethao.com/thai-nguyen-xay-dung-he-gia-tri-van-hoa-gan-voi-bao-ton-ban-dia/ Sun, 28 Sep 2025 23:02:53 +0000 https://doisongthethao.com/thai-nguyen-xay-dung-he-gia-tri-van-hoa-gan-voi-bao-ton-ban-dia/

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, xã hội hiện đại đang trải qua những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc. Sự giao tiếp và tiếp cận thông tin không còn bị giới hạn bởi biên giới hay không gian địa lý. Trước những thay đổi này, tỉnh Thái Nguyên đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng hệ giá trị văn hóa nhằm định hướng tư tưởng, lối sống và nhân cách con người trong thời đại mới.

 Nghi lễ lấy nước của đồng bào các dân tộc xã Định Hóa được trình diễn phục vụ du khách.
Nghi lễ lấy nước của đồng bào các dân tộc xã Định Hóa được trình diễn phục vụ du khách.

Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Mặt trái của thị trường tự do là lối sống thực dụng, bon chen, đề cao lợi ích cá nhân. Sự sính ngoại và chạy theo những trào lưu lệch chuẩn có thể khiến văn hóa bản địa bị lu mờ. Công nghệ thông tin, dù mang lại nhiều tiện ích, cũng có thể khiến con người trở nên xa cách hơn, các giá trị truyền thống trong gia đình và cộng đồng dần bị mai một.

Nhận thức rõ những nguy cơ tiềm ẩn, tỉnh Thái Nguyên đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm định hướng hệ giá trị văn hóa cho người dân. Từ việc đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, giáo dục lối sống văn minh, phát huy chuẩn mực đạo đức truyền thống đến tổ chức các phong trào văn hóa ở cơ sở, tất cả đều hướng tới mục tiêu xây dựng con người Thái Nguyên phát triển toàn diện.

Thái Nguyên là tỉnh có nhiều địa hình phức tạp, với gần 50 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn 92 xã, phường. Dù còn nhiều khó khăn về kinh tế, các cộng đồng dân tộc tại đây vẫn giữ gìn được bản sắc riêng, với những triết lý sống sâu sắc, đầy tính nhân văn. Sự đoàn kết, tính cộng đồng, lòng thủy chung, sự tôn kính tổ tiên vẫn được gìn giữ như những giá trị cốt lõi.

Để lan tỏa những giá trị tích cực trong cộng đồng, tỉnh Thái Nguyên đã triển khai mạnh mẽ các phong trào như ‘Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa’, ‘Xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa’ gắn với việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Các hoạt động này không chỉ góp phần định hướng lối sống lành mạnh mà còn giúp khơi dậy tinh thần tự giác, ý thức gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa trong mỗi người dân.

Một trong những điểm sáng trong công tác xây dựng hệ giá trị văn hóa của tỉnh là việc chú trọng khuyến khích cộng đồng dân tộc thiểu số giữ gìn truyền thống văn hóa đặc trưng. Hằng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đều lựa chọn các nghệ nhân dân gian là người dân tộc thiểu số tham gia liên hoan, hội diễn văn hóa do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức tại tỉnh và cả nước.

Từ việc coi trọng văn hóa, tư tưởng, Thái Nguyên đã tạo dựng được môi trường xã hội ổn định, góp phần vào sự phát triển toàn diện của con người. Người dân, đặc biệt là đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa ngày càng có ý thức hơn trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc, chủ động ‘miễn dịch’ với các dòng văn hóa lệch lạc, độc hại. Trong cơ chế thị trường, dù chịu nhiều tác động vật chất, nhưng nhiều gia đình vẫn giữ vững nếp sống nghĩa tình, gắn bó. Trong thời đại số hóa, người dân biết sử dụng công nghệ thông tin một cách chủ động, có chọn lọc, không bị lệ thuộc hay đánh mất chính mình… góp phần xây dựng một xã hội hài hòa, nhân văn, phát triển bền vững từ nền tảng văn hóa, theo Cục Di sản Văn hóa.

]]>
Lớp học xóa mù chữ giúp phụ nữ dân tộc thiểu số thay đổi cuộc sống https://doisongthethao.com/lop-hoc-xoa-mu-chu-giup-phu-nu-dan-toc-thieu-so-thay-doi-cuoc-song/ Wed, 24 Sep 2025 14:03:20 +0000 https://doisongthethao.com/lop-hoc-xoa-mu-chu-giup-phu-nu-dan-toc-thieu-so-thay-doi-cuoc-song/

Ở các xã vùng cao như Bao La, Tân Pheo, Đà Bắc, những lớp học đặc biệt được tổ chức sau mỗi mùa gặt, thu hút sự tham gia của hàng chục phụ nữ dân tộc Mường, Dao, Thái. Họ ngồi bên nhau, chăm chú nghe giảng về từng nét chữ đầu tiên. Đây là những lớp “giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ”, một phần trong nỗ lực xóa mù chữ và nâng cao năng lực học tập cộng đồng do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình phối hợp tổ chức.

Từ năm 2020 đến nay, đã có 6 lớp như vậy được mở, với 125 học viên, 100% là nữ và là người dân tộc thiểu số. Họ đến lớp không vì điểm số, không vì bằng cấp mà vì một điều giản dị: Biết đọc tên mình, biết viết đơn xin vay vốn, hiểu những dòng chữ in trên bao thuốc trừ sâu hay đơn khám bệnh.

Ở cái tuổi ngũ tuần, bà Hà Thị Nhung, người dân tộc Thái ở xã Bao La, đã bắt đầu một hành trình mới – học chữ. Trước kia, mỗi lần đi trạm y tế hay nhận hỗ trợ, bà đều phải nhờ người khác điền giúp giấy tờ. Có khi, cán bộ bảo ký tên, bà chỉ biết cười trừ, đưa ngón tay ra lăn dấu. “Tôi xấu hổ lắm. Đến tên mình cũng không viết nổi”, bà Nhung chia sẻ.

Cơ hội đến khi Trung tâm học tập cộng đồng xã Bao La mở lớp học sau biết chữ vào buổi tối, tranh thủ khi người dân đã thu hoạch xong mùa vụ. Lớp học nhỏ, chỉ có một chiếc bàn gỗ dài và những cuốn vở đã ngả màu theo tay học viên. Nhưng với bà Nhung, đó là thế giới khác – nơi bà bắt đầu nhận diện lại chính mình qua từng con chữ.

Tính đến nay, các xã khu vực Hòa Bình cũ đạt tỷ lệ nữ biết chữ là 99,81%, trong đó nữ dân tộc thiểu số và miền núi đạt 99,64% – vượt xa mục tiêu 93% được đặt ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Đây không chỉ là một thành tích trong lĩnh vực giáo dục mà còn là kết quả của quá trình kiên trì xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau biết chữ và xây dựng mô hình học tập cộng đồng bền vững.

Tuy nhiên, biết chữ không đơn thuần là đích đến mà là điểm khởi đầu cho một hành trình dài hơi – hành trình trao quyền, xây dựng năng lực tự chủ cho người phụ nữ. “Khi người phụ nữ biết đọc, biết viết, họ có thể tiếp cận thông tin, hiểu quyền lợi, chủ động trong kinh tế gia đình và chăm sóc con cái. Quan trọng hơn, họ trở thành người truyền cảm hứng học tập trong bản làng, nơi mà việc cầm bút, đi học với phụ nữ từng là điều xa lạ, thậm chí bị cho là ‘không cần thiết'” – Ông Trần Văn An – Trưởng Phòng Giáo dục thường xuyên, Sở Giáo dục và Đào tạo chia sẻ.

Dù kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, nhưng thực tế ở các xã vùng cao vẫn đặt ra không ít thách thức. Ở một số địa bàn đặc biệt khó khăn, việc duy trì kết quả sau xóa mù chữ chưa thật sự ổn định. Nhiều phụ nữ lớn tuổi quanh năm bám nương, ít có điều kiện tiếp cận thông tin vẫn đang đối mặt nguy cơ tái mù.

Những bước đi căn cơ đang dần được triển khai để đảm bảo “biết chữ” không chỉ là thành tích mà phải là nền móng cho sự phát triển. Từ năm 2025, Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình được giao nhiệm vụ đưa các nội dung về giới, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vào chương trình đào tạo giáo viên. Cùng với đó, các trung tâm học tập cộng đồng ở cơ sở cũng đang được mở rộng vai trò. Từ chỗ chỉ dạy chữ sang hướng dẫn kỹ năng sản xuất, sử dụng công nghệ số, khởi nghiệp tại chỗ… Đây là bước đi cho thấy chương trình xoá mù, nâng cao năng lực cộng đồng không chỉ truyền đạt con chữ, mà còn giúp thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số.

Từ một chương trình xóa mù chữ ban đầu, nhiều địa phương đang chuyển mình từng bước để làm cho “học tập suốt đời” trở thành hiện thực ở cả những bản làng xa nhất. Và ở đó, mỗi người phụ nữ biết chữ, dù chỉ một câu, một dòng, cũng đang viết nên phần tương lai tươi sáng hơn của chính mình.

]]>
Đắk Lắk: Thưởng thức miễn phí món ăn độc đáo của đồng bào dân tộc thiểu số https://doisongthethao.com/dak-lak-thuong-thuc-mien-phi-mon-an-doc-dao-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so/ Fri, 19 Sep 2025 07:47:52 +0000 https://doisongthethao.com/dak-lak-thuong-thuc-mien-phi-mon-an-doc-dao-cua-dong-bao-dan-toc-thieu-so/

Ngày 26-7, tại xã Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk, một hội thi nấu ăn đặc sắc đã diễn ra với sự tham gia của các món ăn truyền thống từ người đồng bào dân tộc thiểu số. Sự kiện này được tổ chức nhằm chào mừng 78 năm ngày Thương binh – Liệt sĩ (27-7), một dịp để thể hiện lòng biết ơn và sự tri ân của cộng đồng đối với những người đã hy sinh và đóng góp cho Tổ quốc.

Hội thi nấu ăn là một hoạt động thiết thực, không chỉ thể hiện sự quan tâm của cộng đồng mà còn là dịp để các dân tộc thiểu số tại Đắk Lắk giao lưu văn hóa, thể hiện sự đoàn kết và quảng bá những nét văn hóa đặc trưng của từng dân tộc. Các món ăn được chế biến theo phương pháp truyền thống, giữ nguyên hương vị đặc trưng và mang đậm bản sắc văn hóa của từng cộng đồng dân tộc thiểu số.

Thông qua hoạt động này, người dân địa phương và du khách có cơ hội trải nghiệm và tìm hiểu sâu sắc hơn về phong tục tập quán, cũng như sự đa dạng văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đây là một trải nghiệm văn hóa đặc biệt, giúp mọi người hiểu hơn về giá trị truyền thống và sự phong phú của văn hóa Việt Nam.

Các món ăn truyền thống trong hội thi không chỉ là những món ăn ngon mà còn chứa đựng những câu chuyện, những giá trị lịch sử và văn hóa của các dân tộc thiểu số. Qua đó, thể hiện sự tri ân và nhớ về những người đã hy sinh vì Tổ quốc.

]]>
Chị Út Tịch – Biểu tượng bất tử của người phụ nữ Nam bộ https://doisongthethao.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/ Sun, 31 Aug 2025 07:32:53 +0000 https://doisongthethao.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/

Chị Út Tịch – Biểu Tượng Bất Tử Của Người Phụ Nữ Vùng Dân Tộc Thiểu Số Nam Bộ

Chị Út Tịch, tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong cuộc chiến tranh giữ nước và dựng nước. Cuộc đời của chị là một bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự kiên trung và hy sinh cao cả.

Chị Út Tịch mồ côi mẹ từ nhỏ, từng bán chè, gánh nước, mót lúa để sinh nhai. Lấy chồng sớm, có 6 người con, chị là điển hình của mẫu người phụ nữ ‘không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết’. Chồng chị, ông Lâm Văn Tịch, là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Sau khi ông Tịch bị địch sát hại, chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích.

Với hành trang đơn sơ, chị Út Tịch đã chiến đấu qua muôn vàn gian khổ, không rời hàng ngũ dù có người khuyên chị nên về chăm sóc các con nhỏ. Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người duy nhất hy sinh, nhưng trong chị có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc.

Khi chị ngã xuống ở trận đánh năm 1968, con gái út của chị mới lên 3. Không có lễ tang rầm rộ, không kèn trống, không huy chương, nhưng hàng nghìn phụ nữ miền Tây đã khóc chị.

Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng mà còn là một hình bóng máu thịt trong đời sống của bà con miền Tây. Tượng đài chị Út Tịch được đúc bằng đồng, đặt tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân.

Ngày nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, không mang súng ra trận nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình. Họ là những người phụ nữ dân tộc thiểu số, từng bước vươn lên từ vùng căn cứ cách mạng, như chị Thạch Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long, hay chị Nguyễn Thị Nhiền, Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh.

Họ đã chứng minh rằng phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu mà là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân. Trong thời đại hiện nay, với những thách thức mới, cần có chiến lược hỗ trợ những ‘Út Tịch thời bình’ để họ có thể phát triển và vươn lên.

Cụ thể, cần thiết lập Chương trình hành động quốc gia ‘Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035’, thành lập Quỹ ‘Ngọn lửa Út Tịch’ hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn, bổ sung vào giáo trình và truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, và tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ‘Phụ nữ vùng căn cứ – Từ lịch sử đến chính sách’.

]]>
Thái Nguyên phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số: Thành quả từ những giải pháp phù hợp https://doisongthethao.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-thanh-qua-tu-nhung-giai-phap-phu-hop/ Fri, 29 Aug 2025 22:34:01 +0000 https://doisongthethao.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-thanh-qua-tu-nhung-giai-phap-phu-hop/

Thái Nguyên – Một Tỉnh Miền Núi Phía Bắc Đạt Được Thành Tựu Đáng Kể Trong Phát Triển Kinh Tế – Xã Hội

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Thái Nguyên, một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế. Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới.

Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống. Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số.

Nhiều sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

днако, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Phụ nữ dân tộc thiểu số ‘đổi đời’ nhờ làm măng với kỹ thuật tiên tiến https://doisongthethao.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-doi-doi-nho-lam-mang-voi-ky-thuat-tien-tien/ Mon, 04 Aug 2025 07:19:04 +0000 https://doisongthethao.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-doi-doi-nho-lam-mang-voi-ky-thuat-tien-tien/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Tại Lào Cai, đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng tăng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo. Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương.

Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng. Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất. Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo. Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>
Đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số để phát triển toàn xã hội https://doisongthethao.com/dau-tu-vao-vung-dan-toc-thieu-so-de-phat-trien-toan-xa-hoi/ Sun, 27 Jul 2025 15:58:53 +0000 https://doisongthethao.com/dau-tu-vao-vung-dan-toc-thieu-so-de-phat-trien-toan-xa-hoi/

Trong những năm gần đây, nhiều xã vùng sâu, vùng xa đã chứng kiến sự thay đổi đáng kể trong cơ sở hạ tầng, bao gồm hệ thống điện, đường, trường, trạm. Những con đường đất đã được nâng cấp thành đường bê-tông và nhựa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và giao thương của nhân dân. Trường học và trạm y tế cũng được xây dựng khang trang, giúp con em đồng bào có môi trường học tập tốt hơn và người dân được chăm sóc sức khỏe toàn diện hơn.

Việc đầu tư vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ giúp kích cầu phát triển toàn xã hội mà còn giảm bớt khoảng cách giữa các hộ gia đình giàu và nghèo. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả lâu dài, cần có sự đầu tư chung cho toàn vùng và đầu tư riêng cho từng đối tượng. Ông Điểu Điều, Trưởng ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai, cho rằng cần có sự đầu tư cho từng hộ gia đình để những hộ nghèo, cận nghèo có động lực vươn lên.

Ông Điểu Điều cũng đề xuất rằng trước mắt, cần đầu tư con giống, nông cụ cho đồng bào. Về lâu dài, cần đầu tư nghề, đầu tư thay đổi tư duy, ý thức cho đồng bào để họ tự vươn lên. Cách xóa nghèo hiện nay, chỉ đơn giản là ‘dân nghèo cái gì thì cho cái đó’, không phải là giải pháp bền vững. Lâm Nhanh, một cán bộ đoàn của xã Lộc Hưng, tỉnh Đồng Nai, đã tiên phong trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị và mở ra hướng đi mới cho địa phương.

Nhờ được Quỹ hỗ trợ nông dân hỗ trợ thêm 50 triệu đồng, anh Lâm Nhanh đã chủ động chuyển đổi vùng đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dưa lưới. Hiện nay, anh đã hỗ trợ thêm 10 hộ dân khác trồng dưa lưới trên diện tích 10 ha. Mô hình này không chỉ giúp tăng thu nhập cho gia đình anh Lâm Nhanh mà còn mở ra hướng đi mới cho các hộ dân khác trong xã.

Tại các xã biên giới như Tân Tiến, Thiện Hưng, Hưng Phước, trước đây hạ tầng y tế thiếu và yếu, nhưng nhờ được đầu tư các nguồn lực, trong đó có nguồn vốn của Chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đã tạo nên một hệ thống chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng hiệu quả và chất lượng. Trạm y tế của xã Hưng Phước đã có đủ hạ tầng kỹ thuật và khối phụ trợ, cũng như đủ thuốc trong danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại trạm y tế xã theo quy định hiện hành.

Khi hệ thống y tế được đầu tư đồng bộ, người dân vùng sâu, vùng xa có điều kiện tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh kịp thời, giảm bớt bệnh tật và nâng cao thể trạng và chất lượng cuộc sống. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng sâu, vùng xa, góp phần củng cố niềm tin của đồng bào đối với chính quyền.

Thông qua tín dụng ưu đãi, người dân có điều kiện đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Chị Thị Geo, ở xã Đắk Nhau, năm 2022 được vay 50 triệu đồng từ nguồn vốn chính sách, đã mua một cặp bò giống và làm chuồng trại. Đến nay, đàn bò của chị đã phát triển lên năm con, tạo nguồn thu nhập ổn định và giúp gia đình chị chính thức thoát nghèo.

Những nguồn vốn chính sách của trung ương và địa phương như những cơn ‘mưa dầm’ thấm sâu vào đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa, từng bước thay đổi cuộc sống của người dân. Với sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả, người dân vùng sâu, vùng xa đang có cơ hội vươn lên thoát nghèo và xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.

]]>