nghiên cứu – Doisongthethao.com https://doisongthethao.com Trang thông tin đời sống & thể thao Fri, 19 Sep 2025 22:47:47 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/doisongthethao/2025/08/icon-doisongthethao.svg nghiên cứu – Doisongthethao.com https://doisongthethao.com 32 32 Phụ nữ có xu hướng ganh ghét đồng giới hơn dịu tính với người yêu https://doisongthethao.com/phu-nu-co-xu-huong-ganh-ghet-dong-gioi-hon-diu-tinh-voi-nguoi-yeu/ Fri, 19 Sep 2025 22:47:45 +0000 https://doisongthethao.com/phu-nu-co-xu-huong-ganh-ghet-dong-gioi-hon-diu-tinh-voi-nguoi-yeu/

Một nghiên cứu gần đây được công bố trên tạp chí Nature vào năm 2023 đã khám phá thế giới phức tạp của sự cạnh tranh nội bộ gián tiếp giữa phụ nữ. Nghiên cứu này, do Giáo sư Tim Clutton-Brock từ Đại học Cambridge thực hiện, đã thu thập dữ liệu từ gần 600 người tham gia, độ tuổi từ 25 đến 45, đã kết hôn và có con. Họ được yêu cầu đánh giá phản ứng của những người đồng giới khác trong hơn 20 tình huống khác nhau liên quan đến các nguồn lực có lợi cho phụ nữ như thực phẩm, sự an toàn, địa vị, sức mạnh…

Kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ thiếu một nguồn lực nào đó sẽ có cảm xúc rất tiêu cực với những người phụ nữ có thứ đó, cao hơn đáng kể so với nam giới trong tình huống tương tự. Ví dụ, một phụ nữ có ngoại hình kém hấp dẫn rất dễ nảy sinh cảm giác khó chịu, thậm chí thù ghét người có nhan sắc. Đặc biệt, nếu nguồn lực đó có ở nam giới, phụ nữ thường không có tâm lý ganh đua, hoặc có nhưng không đáng kể.

Nghiên cứu sâu hơn cho thấy phụ nữ tỏ thái độ tiêu cực mạnh mẽ với những người cùng giới tính, liên quan đến các nguồn lực như vị trí quyền lực tại nơi làm việc, ngoại hình hấp dẫn, có cha mẹ tốt, là thành viên có ảnh hưởng trong cộng đồng, năng động, sức khỏe tuyệt vời, sống trong một ngôi nhà đẹp, có người bạn đời tốt. Điều này có nghĩa là phụ nữ có xu hướng phản ứng tiêu cực hơn nam giới trước sự bất cân xứng về nguồn lực giữa những người cùng giới, nhưng không phải giữa những người khác giới.

Theo lý giải của tâm lý học tiến hóa, thực tế này bắt nguồn từ việc phụ nữ trong lịch sử phải đối mặt với nguy cơ cao hơn từ hành vi xâm phạm thể chất và do đó phát triển các hình thức xung đột xã hội ngầm hơn. Họ thường nảy sinh cạnh tranh dựa trên ngoại hình, địa vị, bạn đời. Trong khi đó, đàn ông thường có xu hướng cạnh tranh trực tiếp hơn như thi đấu thể chất, ganh đua công khai, thử thách hoặc thể hiện sự thống trị.

Mặc dù đều có tính cạnh tranh, phụ nữ có thể tránh cạnh tranh công khai do áp lực và kỳ vọng xã hội là phái nữ phải dễ chịu, hòa đồng và không thống trị. Do đó, họ có thể cạnh tranh nhiều hơn về ngoại hình, xã hội hoặc cảm xúc, những nơi địa vị của họ được xác định một cách tinh tế.

Tóm lại, nghiên cứu này đã chỉ ra rằng sự cạnh tranh giữa phụ nữ có thể diễn ra gay gắt hơn so với nam giới, đặc biệt là trong các lĩnh vực như ngoại hình, địa vị và bạn đời. Điều này có thể được giải thích bằng lịch sử và áp lực xã hội mà phụ nữ phải đối mặt. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, tạp chí Nature đã cung cấp thông tin chi tiết về nghiên cứu và các phát hiện của nó.

]]>
Công nghệ sinh học: Ngành học có nhiều tiềm năng nhưng cần chuẩn bị kỹ lưỡng https://doisongthethao.com/cong-nghe-sinh-hoc-nganh-hoc-co-nhieu-tiem-nang-nhung-can-chuan-bi-ky-luong/ Mon, 11 Aug 2025 19:36:37 +0000 https://doisongthethao.com/cong-nghe-sinh-hoc-nganh-hoc-co-nhieu-tiem-nang-nhung-can-chuan-bi-ky-luong/

Ngành Công nghệ sinh học đang nổi lên như một lĩnh vực đầy hứa hẹn và đột phá trong thế kỷ 21, với những ứng dụng rộng rãi trong các ngành như dược, nông nghiệp, và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, nhiều sinh viên và người lao động trong ngành này thường lo lắng về khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm hoặc phải làm trái ngành.

Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi sự tương thích giữa năng lực của người học và yêu cầu của thị trường. Ảnh minh họa: INT
Ngành Công nghệ sinh học đòi hỏi sự tương thích giữa năng lực của người học và yêu cầu của thị trường. Ảnh minh họa: INT

Để thành công trong ngành Công nghệ sinh học, người học cần có nền tảng học thuật vững chắc, tư duy khoa học sắc bén và khả năng đọc hiểu, tổng hợp và vận dụng kiến thức linh hoạt. Đặc biệt, kỹ năng thực hành trong phòng thí nghiệm, sử dụng thành thạo các thiết bị và phần mềm số, khai thác dữ liệu lớn, nắm vững tin sinh học, lập trình cơ bản và ngoại ngữ chuyên ngành là những yếu tố không thể thiếu để hội nhập tri thức toàn cầu.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều sinh viên tốt nghiệp ngành Công nghệ sinh học còn yếu về kỹ năng thực hành, sử dụng công nghệ số và ngoại ngữ, dẫn đến khó đáp ứng ngay các yêu cầu khắt khe của doanh nghiệp hay viện nghiên cứu hiện đại.

Theo ThS Dương Nhật Linh, giảng viên Khoa Công nghệ sinh học – Trường Đại học Mở TPHCM, quan niệm về khó xin việc trong ngành Công nghệ sinh học cần được nhìn nhận lại một cách toàn diện và thấu đáo. Công nghệ sinh học là ngành đặc thù với tính liên ngành cao, yêu cầu nhân lực không chỉ am hiểu về sinh học, mà còn phải hội tụ tri thức từ nhiều lĩnh vực như công nghệ thông tin, hóa học, tự động hóa và quản lý chất lượng.

ThS Linh khuyến nghị sinh viên ngành Công nghệ sinh học cần chủ động trau dồi kiến thức chuyên sâu, ngoại ngữ, kỹ năng số và trải nghiệm liên ngành. Công nghệ sinh học đang ‘khát’ nhân lực chất lượng cao, những người linh hoạt, sáng tạo và đa năng. Chỉ cần chủ động và sẵn sàng đổi mới, sinh viên ngành Công nghệ sinh học có thể tìm được công việc phù hợp với năng lực.

Về phía doanh nghiệp, ông Đinh Xuân Tùng, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Kỹ thuật Môi trường Gia Định, cho rằng nỗi lo thất nghiệp của sinh viên công nghệ sinh học phần lớn đến từ tư duy bị động. Ứng viên nổi bật không phải là người có điểm trung bình tích lũy cao nhất mà là người thể hiện được khả năng ứng dụng kiến thức vào thực tiễn.

Ông Tùng nhấn mạnh sự ‘kén chọn’ của doanh nghiệp nằm ở kỹ năng thực tiễn. Sinh viên cần chủ động tìm kiếm cơ hội thực tập, tham gia các dự án nghiên cứu hoặc tự thực hiện các thí nghiệm nhỏ. Việc biết vận hành một hệ thống lên men, kỹ thuật phân lập và định danh vi khuẩn, hay cách phân tích kết quả xét nghiệm có giá trị hơn rất nhiều so với một bảng điểm ‘đỏ chói’.

Theo ông Tùng, sinh viên cần thay đổi góc nhìn từ bị động sang chủ động, hoạch định kế hoạch học tập và hành động cụ thể để đáp ứng nhu cầu thực tế. Cánh cửa cơ hội của ngành Công nghệ sinh học rất rộng, nhưng không tự động mở ra cho mọi người. Nó mở ra cho những ai chủ động trang bị kiến thức nền tảng vững chắc, kỹ năng thực hành thành thạo, tư duy liên ngành, đặc biệt với công nghệ thông tin và dữ liệu, cùng khả năng ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như giải quyết vấn đề, làm việc nhóm.

Tóm lại, ngành Công nghệ sinh học đang bước vào kỷ nguyên số với tốc độ phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít thách thức. Sinh viên và người lao động trong ngành cần chủ động trang bị kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.

]]>